Điểm Du lịch

Đình làng Yên

Đình làng Yên hay còn gọi là Đình Vân An thuộc thôn Thanh Hùng 2, xã Tân Thịnh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Đình làng Yên cách trung tâm thành phố Yên Bái 3,5 km. Đi bằng đường bộ từ trung tâm km 5 đi theo đường Trần Phú khoảng 1,2 km, rẽ bên phải vào đường Thanh Hùng, đi 2 km đến UBND xã Tân Thịnh, rẽ phải 300 m là tới đình. Ngoài ra, từ ngã tư km 4 của thành phố Yên Bái theo đường Lê Lợi đi 500 m, rẽ trái xuống đường đi Văn Tiến 2,5 km, rẽ trái đi 1 km, rẽ trái đi 2 km thì rẽ phải đi thêm 1 km đến UBND xã Tân Thịnh, đi 300 m về phía bên phải là đến di tích. Hoặc có thể đi trên quốc lộ 32 C, qua cầu Văn Phú, đi lên 2 km, rẽ phải đi theo đường trên 2,5 km, rẽ trái 1 km rồi rẽ trái tiếp 2 km, rẽ phải 1 km đến UBND xã đi tiếp 300 m nữa là tới.

Đình làng Yên hiện nay ở vị trí bằng phẳng, phía trước là ruộng, kẹp giữa là đường liên thôn rộng khoảng 2,5 m, phía sau tựa lưng vào đồi.

Đình kết cấu theo kiểu chữ nhất, quay hướng Nam, phía Bắc giáp Ao Cây Thọ, phía Nam giáp Gò Cây Thống, phía Tây giáp tràn Bãi Đồng, phía Đông giáp tràn Đồng Đình.

Tổng diện tích của đình là 32 m2, có ba gian, được xây dựng bằng gỗ, tre, không có hoa văn trang trí, lợp cọ, quy mô nhỏ. Từ ngoài vào gian thứ nhất và gian thứ hai mỗi gian 10 m2, cung thờ được thiết lập ở gian trong cùng hướng mặt ra cửa chính. Ban thờ phân cấp tam toà, toà trên cùng thờ 5 vị đại vương làm Thành hoàng: Cao Lễ, Cao Kha, Cao Tự, Cao Đạt và Đỗ Đốc Mãnh; toà giữa là nơi thờ công đồng; dưới cùng là nơi thờ cụ tổ 7 họ khai thiên lập địa vùng đất này.

Bên phải của gian trong cùng là nơi thờ Mẫu Âu Cơ và Ngọc Dung công chúa.

Trong đình hiện nay không còn ngai của các vị đại vương cũng như nhiều đồ thờ cúng khác, chỉ còn giữ lại được một hòm đựng sắc và một cây đao cũ của đình.

Thần phả chỉ cho biết năm vị đại vương thành hoàng cùng được một nơi thờ phụng, nơi đó phía trước có núi án ngữ, phía sau có con rồng chầu về, cửa chính là nơi giao nhau của ba dòng nước từ ba phía chảy về.

Đình làng Yên bị đổ và được dân làng đóng góp dựng lại nhiều lần nên kiến trúc ngôi đình cũng như cách bài trí có nhiều thay đổi nhưng tổng thể di tích từ xưa vẫn theo kiểu chữ nhất.

alt

 

Ngôi đình trước năm 1981: Theo như các cụ trong làng thì tại đây là một ngôi đình 3 gian, cột mít, rộng rãi, vững chắc, lợp cọ. Cách bài trí trong ngôi đình cũ này cũng có sự thay đổi.

Trước năm 1972 trong đình chỉ có ba vị Thành hoàng, hai vị Thánh Mẫu và cụ tổ của 7 dòng họ từ khi dựng đình. Vào thời điểm này ban thờ chính giữa được phân cấp tam toà: trên cùng là nơi ngự  của hai vị đại vương Cao Lễ và Cao Kha; cấp thứ hai là nơi thờ công đồng; cấp thứ ba là nơi thờ cụ tổ 7 họ. Bên phải gian trong cùng (từ ngoài vào) là nơi ngự của Đô Đốc Mãnh Thành hoàng, cũng về phía bên phải, giáp với gian trong cùng của đình làng là một miếu nhỏ riêng – nơi thờ Mẫu Âu Cơ và Ngọc Dung công chúa.

Từ sau năm 1972 khi miếu Đỏm (nơi thờ Cao Tự đại vương) và miếu Hồng (nơi thờ Cao Đạt đại vương) bị đổ thì 2 vị Thành hoàng ở đây được dân làng rước về thờ tại đình. Lúc này, cách bài trí trong đình có sự thay đổi. Trên ban thờ tam toà: toà trên cùng là ba vị Thành hoàng: Cao Lễ, Cao Kha và Đỗ Đốc Mãnh; toà thứ hai là công đồng; toà thứ ba là nơi thờ cụ tổ 7 họ. Vị Thành hoàng ở miếu Hồng (Cao Đạt đại vương) được rước về ngự phía bên trái (từ ngoài vào), còn vị ở miếu Đỏm (Cao Tự đại vương) được rước về thờ phía bên phải. Mẫu Âu Cơ và Ngọc Dung công chúa vẫn được thờ tại miếu ngay sát đình.

Do không được trông nom, tu bổ đình bị hư hại nhanh chóng. Đến đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX ngôi đình này sụp đổ.

Ngôi đình hiện tại: năm 1991 dân làng tự đóng góp dựng lại đình với diện tích nhỏ hơn, vật liệu bằng gỗ, tre, nứa lá để làm nơi thờ các vị. Vị trí thờ tự lại có sự dịch chuyển. Ban thờ chính giữa có hai cấp, trên cùng là nơi ngự của 5 vị đại vương Thành hoàng: Cao Lễ, Cao Kha, Cao Tự, Đỗ Đốc Mãnh, Cao Đạt; thứ hai vẫn là nơi thờ công đồng; phía dưới của 5 vị đại vương là nơi thờ cụ tổ 7 họ. Mẫu Âu Cơ và Ngọc Dung công chúa không còn miếu thờ riêng mà đưa vào gian trong cùng phía bên phải (từ ngoài vào).

Đến nay trong đình làng Yên chỉ còn lại một cây đao và một hòm đựng sắc phong. Ngoài ra, theo trí nhớ của các cụ kể thì trước kia trong đình còn nhiều hiện vật: 4 cỗ ngai, 4 mâm ấu, 4 tráp, 5 bát hương đá, kiệu, chiêng, trống, bộ binh khí (đao, gươm, kiếm…) hoành phi, câu đối, cờ lọng, bát đĩa … được bài trí cẩn thận, trang nghiêm nhưng đến nay tất cả những đồ này đều không còn do chiến tranh, đình đổ, quá trình chống mê tín dị đoan. Những đồ thờ hiện nay của đình tuy không nhiều nhưng đều là mới, ít có giá trị về mặt lịch sử .

Đình làng Yên hiện nay còn lưu giữ lại được nguồn văn tự khá đầy đủ. Có thể nói, đây gần như là những hiện vật có giá trị nhất trong đình. Ngoài thần phả (ngọc phả) và phần phó ý ghi lai lịch, công trạng của 5 vị Thành hoàng và Ngọc Dung công chúa cùng với các lễ tiết, các kỳ cầu của đình. Tại đình còn có 5 sắc phong của 5 vị Thành hoàng đều đề năm Bảo Đại thứ 12 (1937).

Lễ hội đình làng Yên khá phong phú và còn lưu giữ được nhiều nét khá đặc sắc. Trong năm có 8 kỳ cầu gắn với nhiều nét sinh hoạt sinh hoạt văn hóa mang đặc trưng tộc người:

Ngày mùng 6 và mùng 7 tháng giêng (âm lịch):

Ngày 6/1: có sôi, gà lên cúng ở hai miếu: miếu Đỏm (thờ Cao Tự đại vương) ở phía Đông và miếu Hồng (thờ Cao Đạt đại vương) ở phía Bắc của đình. Mời hai vị hôm sau về đình dự lễ khai xuân.

Ngày 7/1 (lễ hội mở cửa đình). Trong lễ này dân làng tổ chức rước kiệu từ đình làng Yên ra đình Quẽ (đối diện với cửa nhà khách số 2 hiện nay), đình Đụn (nay là Trường Cao đẳng sư phạm Yên Bái) và đình Oang (cách đình Đụn 100 m về phía Đông) để rước ba vị Thành hoàng họ Hoàng ở ba nơi này về đình làng Yên dự hội, cùng với đó có kiệu ra đền Rối rước các vị ở đền về đình làm lễ tế tại đình. Sau khi làm xong rước các vị về các đình và đền như cũ. Trong ngày khai xuân này lễ cúng phải có 5 vị ngọt: trà lam, bánh bỏng, bánh tẻ ngọt (bánh củ), bánh mật, rượu mộng. Trong ngày này dân làng còn tổ chức cho nam thanh nữ tú thi làm bánh các loại.

Ngày 10/2 (âm lịch), (cầu lợn). Theo thần phả thì đây là ngày giỗ của Cao Tự đại vương. Dân làng mổ lợn mở tiệc lớn hầu Đức đại vương.

Ngày 10/3 (âm lịch), (cầu giải mã) là ngày giỗ của Đỗ Đốc Mãnh. Ngày này dân làng làm thuyền rồng lớn, rước ra cửa sông Hồng mới hoá. Múa, hát hầu Đốc Mãnh đại vương.

Ngày 1/5 (âm lịch), (cầu xuống đồng). Dân làng cúng thần nông, cầu một mùa mới bội thu. Trong lễ này ông Từ  phải nhổ 3 cây lúa, 3 cây bon, 3 cây rau đem cấy xuống ruộng đình (trước cửa đình), rồi cấy một hàng. Sau đó, về đình cầu xin các vị thần phù hộ cho mùa màng bội thu.Từ hôm đó trở đi dân làng mới bắt đầu cấy ruộng nhà mình. Đây là một nét văn hóa độc đáo của cư dân nông nghiệplúa nước vùng Đông Nam á.

Ngày 17/7 (âm lịch), (cầu chay). Đây là ngày mất của 2 vị Cao Kha và Cao Đạt (theo thần phả). Trước kia dân làng tổ chức vào ba ngày 15,16,17/7 (15/7 là ngày mất của Cao Lễ, 16/7 là ngày sinh của Cao Kha), dân làng làm 5 thức cúng  như ngày khai xuân mở cửa đình. Tổ chức hát, múa phục vụ các vị đại vương, trong làng từng hội theo độ tuổi tự tổ chức các trò chơi với nhau

Ngày 10/8 (âm lịch) theo thần phả thì đây là ngày sinh của Cao Đạt đại vương. Đây là ngày đại tiệc thứ hai trong năm. Năm thôn trong vùng là Nụ Điền (Hợp Minh ngày nay); Bảo Lương; Hoa Vinh (nay là Phú Thịnh – Yên Bình); Phượng Vĩ (nay là xóm Vã - Minh Bảo) và thôn Yên cùng về làm lễ. Nhân dân mổ 2 con lợn, tế trong 1 ngày 1 đêm.

Ngày 10/9 (âm lịch),  (cầu cơm mới). Trước kia dân làng tổ chức vào ba ngày 10,11,12/9 để làm lễ mừng ngày sinh của Ngọc Dung công chúa.

Ngày 25/12 (âm lịch) đình làm lễ đóng cửa rừng.

Ngoài ra, vào ngày 3/9 ông Từ đình giã cốm, làm bánh dầy cúng tại đình vì đây là ngày mất của Ngọc Dung công chúa.

Các hoạt động hội của đình làng Yên chỉ có hát chèo, hát chầu văn. Thổi kèn, múa sinh tiền phục vụ các vị đại vương trong những ngày tế lễ.

Như vậy, lễ hội của đình gắn liền với ngày sinh của các vị Thành hoàng và Thánh Mẫu. Vào những ngày này dân làng thường mở tiệc vui, múa hát mừng ngày sinh và làm lễ cúng vào ngày mất để tưởng nhớ công lao bao bọc, che trở của các thần từ xưa đồng thời cầu mong để các thần phù hộ cho một năm mới an bình, no đủ. Đó cũng là tính chất của các lễ hội cổ truyền ở Việt Nam.

Ngoài những hoạt động thờ cúng Đình còn gắn với một số hoạt động cách mạng ở địa phương như:

- Trong những năm từ 1937 – 1942 đình là nơi ở cho một số cán bộ của Bộ Quốc Phòng chuyên sản xuất bom mìn chống Pháp.

- Năm 1947 Ngân khố tỉnh (Kho bạc) về sơ tán ở tại đây.

- Năm 1965 Mỹ ném bom Yên Bái nhiều, huyện uỷ Trấn Yên và một số ít giáo viên, học sinh trường cấp III B (trường Nguyễn Huệ hiện nay) về đây ở.

- Năm 1979, chiến tranh biên giới, bộ đội sư đoàn 377 Phòng không không quân về ở tại đình chiến đấu.

Đình Làng Yên đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái cấp bằng chứng nhận di tích cấp tỉnh theo quyết định số 460/QĐ – CTUBND ngày 30/11/2005 và là niềm tự hào của bà con trong vùng.

(Nguồn: yenbai.gov.vn)

Ý kiến của bạn

Tiêu đề *
Email *
Nội dung
Mã bảo vệ *