Di tích lịch sử, văn hóa

Đình Đồng Dụ

Đình Đồng Dụ, xã Đặng Cương, huyện An Dương xây dựng trên một khu đất cao mặt chính quay hướng Tây với một không gian rộng thoáng đãng, có cây cổ thụ trên dưới 300 năm. Cảnh quan thiên nhiên hết sức sinh động, quy mô kiến trúc của ngôi đình kiểu tiền nhất - hậu đinh bề thế. 

Theo bản ngọc phả của các vị đại vương được dân làng Đồng Dụ thờ cúng: dưới triều Trần Thuận Tông (1388 - 1398), niên hiệu Quang Thái có người họ Nguyễn tên Đại Phạm, quê huyện Hoa Phong, xứ Hải Đông kết duyên vợ chồng với Đỗ Thị Uyển người trang Đồng Dụ. Vợ chồng ăn ở với nhau rất hòa thuận, sau 3 năm sinh được người con trai. Mấy năm liền sau đó lại sinh được 5 người con trai nữa. Người con trai cả vì được sinh dưới gốc cây thông nên được đặt tên là Ba Tùng, con thứ hai là Trọng Bách, tiếp đến Trọng Minh, Trọng Mẫn. Hai người con cuối cùng được hai vợ chồng đặt tên là Quý Hồng, Quý Nghị. Để thỏa điều mơ ước lúc tuổi xanh, làm nên quan sang, áo gấm vinh quy, Đại Phạm từ biệt vợ con lên trọ học tại phường Báo Thiên ở kinh đô Thăng Long. Sau những năm dùi mài kinh sử, năm Quang Thái thứ 9 (1397), ông đỗ đầu trong kỳ thi Đình. Đại Phạm được bổ chức Thừa Tuyên phủ Nam Sách, trấn Hải Dương, sau hai năm lại được thăng chức An phủ sứ Hóa Châu. Làm quan, ông rộng rãi, công bằng, coi dân như ruột thịt, đối xử với mọi người hòa nhã. Vùng đất ông trông coi không có nạn trộm cắp, dân chúng được an cư lạc nghiệp. Vua rất coi trọng, cho ông được thu tô thuế của một xã. Từ đó, dân Đồng Dụ ai nấy đều thấm nhuần ơn đức của ông, nhà nào của cải cũng dư thừa, đất đai màu mỡ. Bấy giờ, có người quý tộc ngoại thích nhà Trần là Hồ Quý Ly mưu toan nắm quyền binh về tay minh. Năm Kỷ Mão, niên hiệu Kiến Tân thứ hai (1399), Quý Ly giành ngôi nhà Trần, xưng đế, đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Triều thần nhiều người bất bình, bỏ chức không làm quan với nhà Hồ nữa. Đại Phạm lánh về quê Đồng Du, than rằng: "bày tôi trung không thờ hai vua".
Quý Ly là người hưởng lộc của nhà Trần lại manh tâm cướp ngôi vua, thực là bất trung... Thế là ông liền phát hịch chiêu dụ dân 8 xã (Vĩnh Khê, Văn Cú, Văn Tra, Đồng Giá, Hoàng Lâu, Lương Quy, Tràng Duệ, Hoa Phong), lập đồn ở trang Đồng Dụ. Dại đồn đặt trên gò đất kiẻu Kim tinh lạc thủy (sao kim rơi trên mặt nước); phía ngoài đắp thành lũy, phía trong cắm rào gỗ làm nơi phòng thủ. Lại sai 6 người con trai đắp thêm 3 đồn trại nữa ở xung quanh để tiện ứng cứu lẫn nhau. Sáu người con trai Đại Phạm lúc này ra sức luyện võ nghệ, văn chương, nay thấy cha mẹ bận việc quân đề hăng hái đảm nhận công việc trong, ngoài. Người con út là Quý Nghị thông thạo chữ nghĩa được giao giữ sổ sách trong quân. Bốn người khác được quân lính kính nể không dám gọi tên tục mà chỉ gọi tên đồi trại. Ông cả là cây Đa, ông hai cà cây Vối, ông ba cà Cống Mang, ông tư là Láng Điển. Duy 2 ông thứ năm và thứ sau được gọi là ông Hống và ông Nghị. Về sau, Đại Phạm bị thua trong một trận đánh quyết liệt ở cửa Nam Triệu, mất cùng ngày với 5 người con trai là Tùng, Bách, Minh, Mẫn, Hồng. Người con trai thứ sáu là Nghị, được tin dữ liền tự vẫn. Vào thời Lê, niên hiệu Hồng đức năm thứ hai (1472), vua Lê Thánh Tông xuất quân đánh giặc, qua xã Đồng Dụ được cha con Đại Phạm báo mộng, giúp quân triều đình thắng trận, lập tức ban sắc phong, mỹ tự cho các vị đại vương người trang Đồng Dụ.

Đình Đồng Dụ tổ chức lễ hội vào ngày 10/2 âm lịch. Sau lễ nhập tịch, dân làng rước tượng Đại Phạm cùng bài vị cửa 6 người con trai từ các nơi về đình làm lễ trong 3 ngày. Một không khí lễ hội trang nghiêm, tôn mính của dân làng trước anh linh các vị thành hoàng vì nghĩa lớn hy sinh cho cuộc sống trường tồn mãi mãi. Di tích đình Đồng Dụ được Nhà nước xếp hạng năm 1991.

(Nguồn: haiphong.gov.vn)

 

Ý kiến của bạn

Tiêu đề *
Email *
Nội dung
Mã bảo vệ *