Điểm Du lịch

Hội Đền Chèm

Thời gian: 14/04 âm lịch

Địa điểm: Xã Đông Ngạc, Huyện
Từ Liêm, Hà Nội 

Thứ nhất là hội Cổ Loa
Thứ nhì hội Gióng, thứ ba hội Chèm
(Ca dao)

Từ ngoài đình vào, tam quan ngoài bố trí đầy đủ tứ linh: long, li, qui, phượng quay ra bốn hướng; còn tam quan trong xây 3 gian, 4 mái và 5 cửa ra vào. Khu nhà bia, sân đình, tả hữu mạc, phương đình 8 mái và tòa đại bái, hậu cung tạo thành hình chữ Công. Nhìn chung, các nét khắc hình rồng cuốn thủy, rồng mây, tứ linh, cá hóa rồng, hoa lá, vân mây sóng nước mang nét nghệ thuật Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII) còn rất đậm trong kiến trúc. Hậu cung có án thờ, sập thờ, long ngai, bài vị, khám thờ tượng, vợ chồng Lý Ông Trọng và các tượng chầu.

Tượng ông Trọng cao 8m, tượng bà vợ cao 7,2m, tượng 6 người con cao 2,4m được tạo tác vào năm Đồng Khánh thứ ba (1888). Phía ngoài có tượng ông Sứ (Nguyễn Văn Chất) đặt trong một gian riêng. Ông là người Hoàng Xá cùng Lý Ông Trọng đi sứ. Với chức danh quản mã, ông kiêm làm tùy tướng bảo vệ và làm thầy thuốc. Ông đã chữa bệnh cho Hoàng hậu của vua Tần nên được phong “Chi tiến kim tử, vinh lộc đại phu Thái Y Viện”.

Đình còn giữ được cuốn sách chữ Hán ghi các đạo sắc, lễ nghi, văn tế, cách đắp tượng dưới thời Nguyễn, 3 sắc do các vua triều Nguyễn phong thần cho Lý Ông Trọng, 4 bia đá, 1 tấm thời Lê Cảnh Hưng và 3 tấm thời Nguyễn, 2 chuông đồng đúc dưới thời Nguyễn, 15 câu đối, 8 bức hoành phi, 10 pho tượng thờ. Hệ thống máng đồng đúc từ năm Cảnh Hưng 9 (1748), Cảnh Hưng 17 (1756), Cảnh Thịnh 7 (1799) và Minh Mệnh 5 (1824). Ngoài ra trong đình còn có rất nhiều đồ thờ và các loại đều có giá trị nghệ thuật cao. Bức hoành phi ghi “Càn không chung tú” (Trời đất đúc tinh anh). Đình có câu đối:

Hà nhạc dục tinh anh, khoáng thế tuyệt luân, thần duy uyển từ Âu Việt sử
Quốc gia long hiển tự, đồng tôn hợp kính, linh thanh hiển hách Thụy Hương từ!

Tạm dịch:

Hội Đền Chèm

Sông núi đúc tinh anh, đời rộng tuyệt vời, thần lạ vững bền Âu Việt sử.
Nước nhà luôn tế lễ, cùng tôn đồng kính, tiếng thiêng lừng lẫy Thụy Hương đền!

Có sức khỏe hơn người, mình cao tới hai trượng (tám mét), ông Trọng (Lý Thân) rèn luyện ý chí làm trai, quyết tâm học tập thành người văn võ song toàn. Có lần đi lao dịch bị quản đốc đánh mắng, Lý Thân đã vung tay đánh chết. Thương người tài dũng, An Dương Vương thử thách cử ông sang giúp vua Tần đánh bại rợ Hung Nô. Vua Tần gả con gái cho, phong là Tư Lệ Hiệu úy. Được vua Tần ưu đãi nhưng ông vẫn không nguôi nhớ nước, nhớ nhà còn có mẹ già ngày đêm mong đợi con, ông đã xin về nước. Sau đó quân Hung Nô lại tràn xuống, vua Tần đúc tượng rỗng giống ông Trọng, bên trong có người điều khiển cho tượng cử động tay chân được rồi đem đặt ở cửa Hàm Dương. Giặc kéo đến trong thấy khiếp đảm, tan vỡ. Khi ông Trọng mất, xác được hóa tro rồi gửi về cho vua Tần, lễ an táng được cử hàng trọng thể.

Dân vùng Từ Liêm còn truyền tụng truyện ông Trọng lãnh đạo dân sông Nhuệ (Từ Liêm) để san lũ sông Hồng. Chân ông sải từ làng Chèm sang làng Chài (Đại Độ) để bắt con giải (thuồng luồng). Từ đó người dân Chài và khách qua sông Hồng không còn lo nạn thủy quái. Ông Trọng là vị Thành hoàng bảo vệ đê điều từ làng Chèm (Từ Liêm) tới làng Tranh Khúc (Thanh Trì). Hội Chèm hàng năm diễn ra trang trọng với cuộc rước nước, rước mã, rước văn, lễ mộc dục (tắm tượng thánh), lễ phát tấu (cúng Phật). Lễ rước nước là trang trọng nhất. Những người mặc y phục cổ truyền sau khi tập kết trước cửa đình hành hương xuống ba chiếc thuyền lớn xuôi theo sông Hồng tới Thác Bạc cạnh đền Âm hồn, rồi quay lại trước cửa đình. Quãng đường đi về khoảng 4km.

Tại cửa sông diễn ra nghi thức lấy nước, ba chiếc thuyền quay ba vòng để một lão nông lấy gáo đồng múc nước trong cho vào đôn cổ. Tiếng trống, tiếng reo hò, cờ bay phấp phới cùng tiếng hô “ù éo” vang dội mặt sông trên đê. Lấy nước xong, đoàn thuyền về Nhà Mã cách cổng đền 1km lên Bến Ngự rồi một cuộc diễu hành rầm rộ với các đoàn: Phù Giá, Thủ Hiệu, Gươm Sai, Lịch Triều, Kiệu Đức Ông, Kiệu Đức Bà, Huyền Sư, Quan Viên, Chức Sắc, các bà vãi… Nhịp trống, nhịp chiêng dồn dập. Các em nhỏ múa sênh tiền tiến theo rất vui mắt. Đám rước dừng lại trước sân đình đợi làm lễ Mộc dục.

Lễ rước Văn tiến hành vào chiều tối. Văn tế đặt ở Long Đình rước từ nhà ông trưởng văn ra đình. Trong ngõ, bên đường, cạnh đê, dân làng bầy mâm cúng, hương trầm tỏa thơm. Nhà sư làm lễ phát tấu, diễn xướng kể lại công đức của Lý Ông Trọng và cầu cho mưa thuận gió hòa, sóng yên bể lặng… Hội Chèm duy trì các trò chơi dân gian như: Bơi trải, kéo co, thả diều, thả chim bồ câu. Riêng thi bơi trải là đặc sắc. Bài ca dao cổ năm 1921 ghi:

Ba dân mở hội tháng năm
Mười hai hạ chải, hôm rằm bơi thi.
Ba dân đánh trống chỉ huy
Thuyền nào đạt nhất, cờ thì có mào.
Cả Thuyết đứng mũi chịu sào,
Hai Dương đánh mõ, Trương Giao phất cờ.
Lái Hành khéo lượn thủy cơ,
Dân ta đâu có được cờ mà tranh…

“Ba dân” là ba làng: Làng Chèm (Thụy Phương), làng Mạc Xá và làng Hoàng Xá.

Hội Chèm có tới 300 người tham gia, hàng ngàn người theo xem. Phải chăng là sự ghi nhận về người anh hùng Lý Ông Trọng, chống ngoại xâm, nhà ngoại giao được biểu tượng hóa thành sức mạnh của người Hà Nội cổ đại trong việc trị thủy sông Hồng đắp đê phòng lụt, bảo vệ đời sống nhân dân.

(Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam)

Ý kiến của bạn

Tiêu đề *
Email *
Nội dung
Mã bảo vệ *