Điểm Du lịch

Đền Và

Nằm ở thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, đền Và thờ thần núi Tản Viên, vị thần đứng đầu trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Theo tấm văn bia dựng vào năm Tự Đức thứ 36 (1883) tại đền thì đền Và đã có từ thời Việt  Nam đang thuộc ách đô hộ của nhà Đường. Lúc ấy đền là khu thờ nhỏ nhưng rất linh ứng. Năm 1831 (Minh Mạng thứ 12), tỉnh lỵ Sơn Tây được thành lập, tập trung nhiều quan chức, thương gia, chỉ cách đền Và 2km. Để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, những người này cùng với dân quanh vùng đã hưng công để xây dựng thêm nhà tiền tế 5 gian. Cho đến nay, nhà tiền tế đã trải qua 3 lần tu sửa lớn: tu tạo năm 1829 (Minh Mạng thứ 10), đại tạo năm 1902 (Thành Thái thứ 14) và lại tu tạo năm 1932 (Bảo Đại thứ 7).

Đền Và nằm giữa đồi Và, có diện tích khoảng 17.500m², xung quanh có nhiều cây lim cổ thụ. Theo thuyết phong  thủy, khu đồi có hình dáng con rùa đang bơi về phía mặt trời mọc. Khuôn viên của đền rộng khoảng 2.000m², được bao quanh bằng tường đá ong cao 2,15m. Kiến trúc của đền theo kiểu “nội công ngoại quốc”, có hai dãy nhà 5 gian, thông gian giữa bằng “ống muống” tạo thành hình chữ “công”.

Đền Và xây theo hướng Bắc -  Nam, cửa đền có tam quan rộng, mái lợp ngói cổ, trên đỉnh đắp nổi hình lưỡng long triều nguyệt. Nghi môn - cổng chính của đền, hướng về núi Tản Viên (Ba Vì) gồm ba gian dựng trên nền cao, gian giữa cao 4,8m, hai gian bên cao 2,15m. Nghi môn có ba hàng cột gỗ đặt trên tảng kê bằng đá ong (cột cái cao 4,95m, cột quân 3,8m). Liền sát nghi môn, đăng đối hai bên theo chiều dọc là gác chuông và gác trống có kiến trúc tương tự nhau với kiểu chồng diêm 8 mái phỏng theo gác trống, gác chuông chùa Thầy và có dáng dấp của Khuê Văn Các trong Quốc Tử Giám. Mặt hướng vào sân đền được trang trí theo chủ đề ngũ phúc bằng hình năm con dơi xoè cánh ôm lấy cửa sổ tròn.

Tiếp nối với gác chuông và gác trống là tả mạc, hữu mạc xây dựng theo kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái, tường hồi bít đốc, nóc kết cấu "vì kèo quá giang", mặt trước có cột vuông trên nền tam cấp, mặt trong để trống. Phía sau tả hữu mạc mỗi bên đều có nhà tạo soạn và là nơi nghỉ tạm cho khách hành hương.

Qua cổng đền là một sân rộng lát gạch Bát Tràng. Phía cuối sân, song song với nghi môn là nhà tiền tế (hay tiền bái) rộng năm gian, hai đầu có tháp thiêu hương để hoá vàng mã. Nhà tiền tế hình chữ "nhất", kiến trúc theo lối 5 gian 2 chái chồng rường, giá chiêng; hệ thống cột cái, cột quân bào nhẵn kiểu "thượng thu hạ thách" đặt lên tảng kê chân cột bằng đá. Trên cột là một hệ thống câu đối cổ được chạm khắc tinh xảo. Bức hoành phi chính giữa, sơn son thiếp vàng có ghi bốn chữ đại tự “Nam Thiên Thánh Tổ”. 

Bên trong cùng là hậu cung, được xây dựng vào đời vua Duy Tân năm thứ 9. Hậu cung là nơi thờ Mẹ Đức Thánh Tản Viên, mà dân ta tôn thờ là Đức Quốc Mẫu. Hậu cung hình chữ "công", tòa ngoài kết cấu 3 gian 2 chái lớn (dài 14m10, rộng 8m90). Hậu cung đặt một khám thờ cao hơn 3m sơn son thếp vàng được chạm trổ cầu kỳ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 17. Trước khám thờ có hương án bày long ngai bài vị của Tam vị Đức Thánh Tản (gồm đức Thánh Tản Viên và hai người em con chú là Thánh Cao Sơn và Thánh Quý Minh), phía trên khám treo bức đại tự "Thượng đẳng tối linh thần" niên đại Tự Đức Quý Mùi (năm 1883).

Toà ngoài của hậu cung có 4 pho tượng kích thước như người thật đứng nhìn vào nhau, tay cầm vũ khí và khoác áo bào đỏ gọi là "Tứ Thánh" trấn ở bốn cung quanh núi Ba Vì. Ngoài hiên nhà có hai pho tượng quan văn, quan võ ngồi hướng vào nhau.

Đền Và đang lưu giữ 5 bản thần tích "Tản Viên Sơn Thánh"; 18 đạo “sắc phong” của các đời vua, trong đó có 17 bản chính có dấu ấn; 47 đôi câu đối được chạm khắc, viết trên vách cột, trên gỗ và 18 bức hoành phi viết trên gỗ hoặc đá. Nơi đây còn có 2 bia đá, 3 chuông đồng, 4 tấm biển gỗ. 

Đền được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1964.

(Nguồn: Trung tâm Thông tin du lịch)


Ý kiến của bạn

Tiêu đề *
Email *
Nội dung
Mã bảo vệ *