Di tích lịch sử, văn hóa

Động Từ Thức

Động Từ Thức còn gọi là Động Bích Đào, nằm trên địa bàn xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đây là một hệ thống hang động núi đá vôi với nhiều nhũ đá được gắn liền với truyền thuyết Từ Thức gặp tiên. Cấu tạo địa chất gồm hai động chính là Động trong và Động ngoài.
Động ngoài hẹp, sáng sủa, có miếu Sơn Thần và có bài thơ của Lê Quí Đôn khắc vào đá. Động trong rộng hơn và có nhiều cảnh trí tuyệt đẹp. Dưới ánh đuốc, thạch nhũ muôn hình vạn trạng lóng lánh sắc màu được nhân hoá thành một thế giới gần gũi với đời sống như "cây bạc", "cây vàng", "ao bèo", "rồng ấp trứng"... Đi sâu vào nữa lại có cả giá chiêng, giá trống, phường bát âm, bàn cờ tiên... trong động có "đường lên trời" và lối "xuống lòng đất". Động Từ Thức không những là một danh thắng mà còn là một di tích lịch sử trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Truyền thuyết kể rằng: Từ Thức người Tống Sơn, nay là Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá làm tri huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nhân đi chơi hội đã cởi áo gấm giúp một cô gái xinh đẹp gặp tình huống éo le. Thời gian sau chàng từ quan, tìm thú vui nhàn tản. Một lần ra cửa biển Thần Phù, Từ Thức đi qua núi và thấy một chiếc động, được bà chủ gả cho Giáng Hương, chính là người chàng đã cứu thuở nào. Sống với nhau được một năm, dù thuận hoà, êm ấm, Từ Thức chợt nhớ nhà, xin được về thăm. Cảm thông nỗi niềm của chồng, Giáng Hương sắm xe và gài sẵn phong thư kín nói lời ly biệt. Khi đến quê, tất cả đều đổi thay, Từ Thức hỏi một cụ già râu tóc bạc phơ thì mới biết đó là cháu nội của mình. Chàng đã đi quá lâu. Từ Thức muốn trở lại cõi tiên với vợ, nhưng chẳng còn dịp may … trước cửa động Từ Thức, dây leo chằng chịt đan kết thành những chiếc võng.

Thắng cảnh

Ngoài cửa động có một miếu nhỏ gọi là miếu Sơn Thần, miếu chỉ cao chấm đầu người và không rộng lắm. Ngay trên cửa động, trên vách đá được tạc bài thơ đề của Lê Quý Đôn khi viếng thăm động vào thế kỷ XVII.

Suốt chiều sâu của động, có rất nhiều nhũ đá tạo thành những hình thù độc đáo và được gắn liền với truyền thuyết về Từ Thức và Giáng Hương. Động chính gồm có 2 phần, phần ngoài rộng, trần động hình vòng cung như một chiếc bát úp khổng lồ. Phía dưới vòng cung đó có một nhũ đá toả xuống trông như một trái đào tiên, nên động còn được gọi là động Bích Đào. Dưới là nền đá phẳng, nhẵn, là vết tích đền thờ Từ Thức còn lưu lại đến hôm nay. Sau đó là đụn nhũ thạch lấp lánh được ví như những kho chứa khác nhau:

•  kho tiền là những chỗ thạch nhũ xanh nổi hình tròn từng lớp chồng lên nhau;

•  kho vàng là những thỏi đá óng ánh mầu vàng;

•  kho muối là một quần thể thạch nhũ bé, trắng toát;

•  kho gạo lại hấp dẫn hơn bởi những hòn đá mịn được gắn chặt, đều màu nâu bạc.

Vào phần trong, một cổ tam sinh có đủ trâu, dê, lợn, một mâm cỗ... tương đối giống như thật, một mâm ngũ quả... bằng đá được thiên nhiên bày sẵn từ muôn đời nay. Càng vào sâu, lòng động càng rộng ra, với nhiều dấu tích về tình yêu của Giáng Hương và Từ Thức như: buồng tắm của Giáng Hương và thư phòng của Từ Thức bằng đá; những bông hoa, những quả đào tiên, vầng trăng và có cả những đôi chim thạch nhũ. Những thanh đá thiên cầm gõ vào sẽ phát ra những thanh âm khác nhau được gọi là dàn chiêng trống.

Đi sâu vào trong, có 2 dấu chân người in vào đá từ bao giờ, tương truyền là dấu chân Từ Thức. Một vài nụ đá và một vài đường nét trên một mặt đá phẳng tạo thành bàn cờ tiên. Đôi gò bồng đảo đầy quyến rũ bên một vũng nước trong suốt có thể nhìn thấy những hòn đá dưới đáy, là giếng mà tiên nữ Giáng Hương từng tắm với nụ cười làm đắm say kẻ phàm trần. Một dải đá màu lục lốm đốm, cùng một dải đá có những hình thù ếch nhái, là ao bèo trong sự tưởng nhớ quê hương của chàng thư sinh Từ Thức. Sau cảnh này là một ngã rẽ, một ngã theo tương truyền là đường lên cõi tiên của Từ Thức. Tại đây có quán nghỉ chân bằng đá mà chàng đã từng nghỉ suốt dọc hành trình và còn đó những mắc treo áo, treo mũ bằng đá. Bên cạnh đường lên tiên là một ngã rẽ hỏm sâu theo đường xoáy ốc vẫn bí ẩn muôn đời nay, nhân dân quen gọi là đường xuống Địa ngục. Sau lưng động là núi Thần Phù, hang Dơi...

          Thơ đề của Lê Quý Đôn

Thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn khi vãn cảnh động Từ Thức đã đề tặng bài thơ tạc vào núi đá ngay cửa động như sau:

Phiên âm tiếng Nôm

Văn đạo thần tiên sự diểu mang

Bích đào động khẩu thái hoang lương

Càn khôn nhất hạt cùng Từ Thức

Vân thủy song nga lão Giáng Hương

Thạch động hữu thanh khao hiểu nguyệt

Diêm điền vô vị nát thu sương

Thế nhân khổ tác Thiên Thai mộng

Thùy thức Thiên Thai diệc hí trường

Dịch nghĩa

Nghe nói chuyện thần tiên là mơ mộng

Cửa động Bích đào nay thật hoang lương

Từ Thức chỉ mặc áo vải thô đi tìm tiên khắp trời đất

Ở cảnh mây nước, hai mắt Giáng Hương mong (Từ Thức) đến già

Trăng gần sáng, nghe trong động đá, như có tiếng gõ kêu

Giọt sương thu thấm bãi muối, muối thành nhạt

Nhiều người cho rằng Từ Thức gặp tiên cũng như chuyện (Lưu Nguyễn) vào Thiên Thai

Nhưng ai ngờ Thiên Thai chỉ là một câu chuyện đùa

Dịch Thơ

Thần tiên vẫn bảo chuyện mơ màng,

Động Bích Đào kia cỏ mọc hoang.

Trời bể tìm tòi, mê huyện Thức!

Nước mây chờ đợi, mệt nàng Hương!

Vang om thạch động trăng gần sáng,

Nhạt nhẽo diêm điền muối đẵm sương,

Giấc mộng Thiên Thai mong mỏi mãi,

Ai hay cũng chỉ hí du trường!

Động Từ Thức còn được nhiều tao nhân, mặc khách thăm viếng, ngợi ca. Năm 1992 đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích cấp quốc gia. 

(Nguồn: dulichthanhhoa.vn)

Ý kiến của bạn

Tiêu đề *
Email *
Nội dung
Mã bảo vệ *